an ninh - quốc phòng

Một số điểm mới về thi hành án dân sự
Ngày đăng 07/05/2020 | 09:47

Ngày 17/3/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 33/2020/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật thi hành án dân sự. Nghị định 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2020. Trong đó sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau:

     1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án dân sự (quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP): Bổ sung thêm đối tượng có trách nhiệm chỉ đạo việc yêu cầu thi hành án là “cơ quan đại diện chủ sở hữu”.   

     Theo Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 "Cơ quan đại diện chủ sở hữu là cơ quan, tổ chức được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do mình quyết định thành lập hoặc được giao quản lý và thực hiện quyền, trách nhiệm đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên".

     2. Về thời hạn yêu cầu thi hành án (quy định tại điểm b khoản 3 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP): Bổ sung thêm trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu thi hành án là trường hợp khi tổ chức "chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn". Bổ sung này nhằm phù hợp với Điều 92 Bộ luật Dân sự có quy định về việc chuyển đổi hình thức của pháp nhân thành pháp nhân khác và quy định của Luật Doanh nghiệp về việc “chuyển đổi loại hình doanh nghiệp”. Trong đó, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp bao gồm việc chuyển đổi từ công ty TNHH sang công ty cổ phần hoặc ngược lại, doanh nghiệp tư nhân sang công ty TNHH.

     3. Về thỏa thuận thi hành án (quy định tại khoản 2, 4 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP): Quy định việc thỏa thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Đương sự phải chịu trách nhiệm về nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.

     4. Việc ra quyết định thi hành án theo yêu cầu (quy định tại Khoản 1, 4 Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP): Bỏ quy định về thời hạn thi hành án trong 30 ngày kể từ ngày được thông báo hợp lệ.

     5. Quy định về bán đấu giá (quy định tại Khoản 3,5 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP):

     Quy định tăng thời hạn nộp tiền thi hành án từ 15 ngày lên 30 ngày “Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm”.  

     Trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào thì sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền đặt trước thuộc về ngân sách nhà nước và được sử dụng để thanh toán lãi suất chậm thi hành án, tạm ứng chi phí bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi phí cần thiết khác.