an ninh - quốc phòng
Trong những năm qua, tình hình tố cáo của công dân còn diễn biến phức tạp và gay gắt. Nội dung tố cáo chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái trong quản lý, thực thi công vụ; tố cáo hành vi vi phạm về đất đai, xây dựng, môi trường, thực hiện chế độ chính sách đối với người dân. Mặc dù UBND quận Hoàng Mai đã giải quyết tố cáo nhưng công dân không đồng tình với kết luận giải quyết tố cáo, do đó, tiếp tục tố cáo lên các cơ quan cấp trên, thậm chí có những vụ việc tố cáo phức tạp, kéo dài.
Để đảm bảo quyền tố cáo của công dân, pháp luật về tố cáo hiện hành có chế định về tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp. Luật Tố cáo 2018 và Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật tố cáo đã có quy định cụ thể về việc tố cáo tiếp, việc giải quyết đối với tố cáo tiếp. Cụ thể như sau:
1. Quy định pháp luật hiện hành về tố cáo tiếp, giải quyết đối với tố cáo tiếp
1.1. Về căn cứ tố cáo tiếp:
- Theo quy định của Luật Tố cáo 2018 (Điểm d, Khoản 1, Điều 9), người tố cáo có quyền tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết. Như vậy, việc giải quyết đối với tố cáo tiếp khi có một trong các căn cứ sau: Một là, quá thời hạn theo quy định của pháp luật mà vụ việc tố cáo chưa được giải quyết; Hai là, khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng quy định của pháp luật. Khi nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo phải xem xét hồ sơ giải quyết vụ việc tố cáo trước đó. Nếu như việc giải quyết tố cáo trước đó là đúng quy định của pháp luật thì sẽ không giải quyết lại vụ việc tố cáo; trường hợp việc giải quyết tố cáo trước đó là không đúng thẩm quyền thì tiến hành giải quyết tố cáo theo thẩm quyền hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo; trường hợp có căn cứ để giải quyết lại vụ việc tố cáo thì tiến hành giải quyết lại tố cáo. Việc giải quyết lại vụ việc tố cáo chỉ được tiến hành khi việc giải quyết tố cáo trước đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật, làm sai lệch bản chất vụ việc hoặc bỏ lọt thông tin, tài liệu trong khi giải quyết tố cáo.
1.2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp:
Theo quy định tại Điều 37 Luật Tố cáo năm 2018, thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp sẽ được xác định trên cơ sở căn cứ tố cáo tiếp. Cụ thể là:
- Trường hợp việc giải quyết tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đúng quy định pháp luật thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ việc tố cáo. Như vậy, yêu cầu đặt ra để đảm bảo vụ việc giải quyết tố cáo được khách quan thì phải là người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo.
- Trường hợp việc giải quyết tố cáo trước đó là không đúng thẩm quyền thì tiến hành giải quyết tố cáo theo thẩm quyền hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
- Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết thì Thủ trưởng cấp trên yêu cầu cấp dưới phải giải quyết. Cụ thể là, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có văn bản yêu cầu người giải quyết tố cáo báo cáo về quá trình giải quyết tố cáo, lý do về việc chậm giải quyết tố cáo và xác định trách nhiệm giải quyết tố cáo. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp, người giải quyết tố cáo phải gửi báo cáo theo quy định; tiếp tục giải quyết tố cáo theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp và báo cáo kết quả giải quyết.
Tuy nhiên, một điểm mới của Luật Tố cáo năm 2018 trong việc quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết, đó là trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có dấu hiệu không khách quan thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp giải quyết vụ việc tố cáo (Khoản 5, Điều 38 Luật Tố cáo 2018). Hiện nay, Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP đã cụ thể hóa nội dung này.
2.3. Về kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo:
Pháp luật tố cáo hiện hành đã quy định về kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo. Theo đó, Khoản 4, Điều 37 Luật Tố cáo quy định, kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo bao gồm các nội dung chính sau đây:
- Nội dung quy định tại khoản 2, Điều 35 của Luật Tố cáo.
- Kết luận về những nội dung vi phạm trong quá trình giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp dưới.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết tố cáo trước đó.
- Xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong việc giải quyết tố cáo.
Kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo là văn bản quan trọng nhất của việc giải quyết lại vụ việc tố cáo, phản ánh kết quả của việc xác minh, giải quyết lại vụ việc tố cáo, là đánh giá của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với nội dung tố cáo, xác định tố cáo đó đúng, đúng một phần hay sai toàn bộ, xác định trách nhiệm của từng cá nhân, từ đó có các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Đồng thời cũng là đánh giá, kết luận về những nội dung vi phạm trong quá trình giải quyết tố cáo của người đã giải quyết trước đó, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết tố cáo trước đó, từ đó xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong việc giải quyết tố cáo trước đó.
Như vậy, kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo không chỉ có giá trị pháp lý bắt buộc đối với người tố cáo, người bị tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong vụ việc giải quyết tố cáo trước đó, mà còn có giá trí pháp lý đối với người đã giải quyết tố cáo trước đó. Kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo phải đưa ra biện pháp xử lý hoặc các kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong việc giải quyết tố cáo.
2.4. Hồ sơ vụ việc giải quyết đối với tố cáo tiếp:
Hiện nay, Khoản 2, Điều 39 Luật Tố cáo lần đầu tiên đã quy định về vấn đề này trong trường hợp phải giải quyết lại vụ việc tố cáo. Theo đó, đối với việc giải quyết lại vụ việc tố cáo, hồ sơ bao gồm những tài liệu quy định tại Khoản 1, Điều 39 và các tài liệu sau đây:
- Đơn tố cáo tiếp hoặc văn bản ghi nội dung tố cáo tiếp; văn bản yêu cầu hoặc kiến nghị về việc giải quyết lại vụ việc tố cáo;
- Kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo;
- Quyết định xử lý của người giải quyết lại vụ việc tố cáo;
- Các tài liệu khác có liên quan trong quá trình giải quyết lại vụ việc tố cáo.
Đây là những căn cứ quan trọng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết lại vụ việc tố cáo quản lý đối với hồ sơ vụ việc tố cáo tiếp một cách chặt chẽ. Qua đó, giúp cho việc giải quyết đối với tố cáo tiếp đảm bảo tính khoa học, chính xác, khách quan, tránh tình trạng làm thất lạc hồ sơ hoặc tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết đối với tố cáo tiếp.
2. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật về tố cáo tiếp, giải quyết tố cáo tiếp hiện nay:
Dưới góc độ khoa học, liên quan đến tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp, còn một số vấn đề mà pháp luật về tố cáo hiện nay chưa giải quyết thực sự triệt để đó là:
- Về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết đối với tố cáo tiếp: Hiện nay, theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018, trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết đối với tố cáo tiếp được thực hiện như trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết đối với các vụ việc tố cáo thông thường. Chúng tôi cho rằng, giải quyết tố cáo tiếp có những đặc thù riêng, khác với giải quyết tố cáo thông thường về căn cứ, thẩm quyền giải quyết, do đó, cần có quy định riêng về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết đối với tố cáo tiếp. Đặc biệt, đối với những trường hợp phải giải quyết lại vụ việc tố cáo hoặc cấp trên lấy vụ việc tố cáo lên để giải quyết khi quá thời hạn mà cấp dưới chưa giải quyết, có những đặc thù riêng về chủ thể tiến hành thụ lý, xác minh, ban hành kết luận nội dung tố cáo, do đó cần có quy định cụ thể về vấn đề này.
- Pháp luật về tố cáo hiện hành còn thiếu các quy định về sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết đối với tố cáo tiếp, giữa cơ quan cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan tham mưu, giúp việc với người có thẩm quyền giải quyết lại vụ việc tố cáo; giữa bộ phận xác minh nội dung tố cáo tiếp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và với người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiếp.
- Về căn cứ để cấp trên lấy vụ việc tố cáo lên để giải quyết trong trường hợp quá thời hạn quy định mà vụ việc chưa được giải quyết. Một trong những trường hợp Luật Tố cáo quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp phải giải quyết tố cáo khi quá thời hạn mà cấp dưới chưa giải quyết là khi có căn cứ xác định việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Yếu tố “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” đã được cụ thể hóa tại Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, trong đó có một trong các căn cứ sau:
+ Kết quả xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo thiếu chính xác hoặc thiếu khách quan.
+ Bỏ sót, bỏ lọt thông tin, tài liệu, chứng cứ quan trọng trong khi xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo.
+ Áp dụng không đúng pháp luật trong quá trình xác minh hoặc kết luận nội dung tố cáo.
Quy định này là không hợp lý. Bởi vì vụ việc tố cáo quá thời hạn, chưa được giải quyết xong thì không thể có kết luận nội dung tố cáo, do đó không thể có chứng cứ xác định “kết luận nội dung tố cáo thiếu chính xác hoặc thiếu khách quan” hoặc “bỏ sót, bỏ lọt thông tin, tài liệu, chứng cứ quan trọng” trong khi kết luận nội dung tố cáo hoặc “áp dụng không đúng pháp luật” trong kết luận nội dung tố cáo. Như vậy, những căn cứ để cấp trên giải quyết vụ việc quá thời hạn chưa giải quyết xong của cấp dưới trong những trường hợp này là không thực tế, không phù hợp.
- Vấn đề trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người tố cáo tiếp. Luật có quy định, một trong những trách nhiệm của người tố cáo đó là: “Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra” (Điểm d, Khoản 2, Điều 9). Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định lỗi cố ý tố cáo sai sự thật và xác định mức độ thiệt hại để quy trách nhiệm bồi thường như thế nào là không dễ dàng. Đặc biệt, với những tố cáo đúng sự thật nhưng đã được giải quyết đúng pháp luật, đúng thẩm quyền nhưng người tố cáo vẫn không đồng tình với kết quả giải quyết và tố cáo tiếp thì xử lý ra sao chưa được Luật quy định triệt để.
3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về tố cáo tiếp, giải quyết tố cáo tiếp
- Hoàn thiện khái niệm tố cáo tiếp, giải quyết tố cáo tiếp:
Hiện nay, trong Luật Tố cáo năm 2018 chưa có khái niệm về tố cáo tiếp. Trong khi đó, thực tế tố cáo tiếp đã và đang diễn ra tại quận Hoàng Mai nói riêng và toàn thành phố Hà Nội, cơ quan, tổ chức, thậm chí là tố cáo phức tạp, kéo dài. Điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện chế định về tố cáo tiếp, giải quyết tố cáo tiếp trong Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó, trước hết, trong phần giải thích pháp luật của Luật tố cáo, cần có định nghĩa chính thức về vấn đề tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp.
- Xây dựng một chương riêng trong Luật Tố cáo quy định về tố cáo tiếp, giải quyết tố cáo tiếp:
Cần nghiên cứu xây dựng trong Luật Tố cáo (sửa đổi) một chương quy định riêng về vấn đề tố cáo tiếp và giải quyết đối với tố cáo tiếp. Trong chương đó, quy định rõ căn cứ để tố cáo tiếp, việc thực hiện quyền tố cáo tiếp của công dân, thẩm quyền giải quyết và trình tự, thủ tục giải quyết đối với tố cáo tiếp trong từng trường hợp cụ thể; việc xây dựng, ban hành, công khai kết luận đối với giải quyết tố cáo tiếp. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu và áp dụng pháp luật về tố cáo tiếp, giải quyết đối với tố cáo tiếp một cách chính xác và thống nhất.
- Hoàn thiện các quy định về việc thực hiện quyền tố cáo tiếp của công dân:
Pháp luật hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể công dân thực hiện quyền tố cáo tiếp như thế nào. Do đó, cần quy định cụ thể đơn tố cáo tiếp phải có những nội dung cơ bản gì, những tài liệu, bằng chứng kèm theo đơn tố cáo tiếp (như kết luận nội dung tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, những căn cứ, chứng cứ thể hiện việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật hoặc chứng cứ thể hiện chưa giải quyết xong vụ việc tố cáo mặc dù đã quá thời hạn giải quyết...).
- Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo tiếp:
Pháp luật tố cáo hiện hành quy định không có sự khác nhau giữa trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo tiếp với trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo thông thường. Chúng tôi cho rằng giải quyết tố cáo và giải quyết tố cáo tiếp có những điểm khác nhau rất căn bản về thẩm quyền giải quyết, về căn cứ pháp lý để giải quyết, do đó cần có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo tiếp. Đặc biệt là trong trường hợp giải quyết lại vụ việc tố cáo, thẩm quyền giải quyết vụ việc là Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo. Do đó, cần có quy định cụ thể về việc Thủ trưởng cấp trên giao vụ việc xác minh cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao xác minh vụ việc tố cáo tiếp, trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ việc giải quyết tố cáo của người đã giải quyết tố cáo, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng...Tất cả các vấn đề đó cần phải được quy định cụ thể, làm cơ sở pháp lý chó các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết đối với vụ việc tố cáo tiếp.
- Hoàn thiện quy định về căn cứ giải quyết tố cáo tiếp:
Như đã phân tích ở trên, quy định tại Khoản 1, Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP là không phù hợp, vì đây là những trường hợp người giải quyết tố cáo chưa giải quyết tố cáo nên không thể có việc ban hành kết luận nội dung tố cáo. Hơn nữa, vụ việc chưa giải quyết xong nên cũng không thể kết luận là kết quả xác minh thiếu khách quan hoặc bỏ sót, bỏ lọt thông tin, tài liệu, chứng cứ quan trọng trong khi xác minh hoặc áp dụng không đúng pháp luật trong quá trình xác minh. Chúng tôi cho rằng cần bỏ điểm b, Khoản 1, Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP. Ngoài ra, cần sửa đổi điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP theo hướng: có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo (chẳng hạn, quá thời hạn giải quyết tố cáo từ 6 tháng trở lên); khi đó cấp trên sẽ lấy vụ việc đó lên để giải quyết và xem xét, xử lý trách nhiệm của người có thẩm quyền chậm trễ trong việc giải quyết tố cáo.
Bên cạnh đó, Khoản 2, Điều 5 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định trường hợp quá thời hạn giải quyết tố cáo, nếu tố cáo tiếp, cấp trên xác định có dấu hiệu không khách quan trong việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức cấp dưới thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp phải giải quyết tố cáo. Các dấu hiệu không khách quan, chẳng hạn như: Người bị tố cáo là vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên chồng, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, của người giải quyết tố cáo; người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo có lợi ích liên quan trực tiếp với người bị tố cáo...Chúng tôi cho rằng quy định này cần áp dụng cho tất cả các vụ việc giải quyết tố cáo chứ không nhất thiết chỉ áp dụng đối với tố cáo tiếp trong trường hợp quá thời hạn luật định. Có như vậy mới đảm bảo giải quyết mọi vụ việc tố cáo được khách quan, chính xác, đảm bảo sự công bằng trong xã hội.
- Hoàn thiện quy định về việc kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo.
Pháp luật hiện hành cần được bổ sung các quy định về trình tự, cách thức ban hành biểu mẫu kết luận nội dung tố cáo trong trường hợp giải quyết lại vụ việc tố cáo khi công dân tố cáo tiếp và xét thấy có dấu hiệu vi phạm trong việc giải quyết trước đó, việc công khai kết luận giải quyết lại vụ việc tố cáo tại cuộc họp phải gồm các thành phần nào (chẳng hạn, người bị tố cáo, người có thẩm quyền giải quyết lại vụ việc tố cáo, người đã giải quyết tố cáo trước đó...); việc gửi kết luận nội dung tố cáo trong trường hợp giải quyết lại vụ việc tố cáo; việc tổ chức thực hiện kết luận nội dung giải quyết lại vụ việc tố cáo...Tất cả các vấn đề đó cần được quy định cụ thể, đảm bảo cho việc ban hành, việc công khai và tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo trong trường hợp tố cáo tiếp được thực hiện một cách cụ thể, chặt chẽ.
- Hoàn thiện quy định về chế tài xử lý đối với những người tố cáo tiếp cố tình tố cáo sai sự thật, tố cáo nhiều lần và chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật khác trong quá trình giải quyết tố cáo.
Hiện nay, tại quận Hoàng Mai vẫn còn tình trạng mặc dù vụ việc tố cáo đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng pháp luạt nhưng người tố cáo vẫn cố tình tố cáo tiếp, tố cáo tràn lan, nhiều lần, sai sự thật, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người khác. Đối với người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức, Điều 35 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP đã có quy định chế tài xử lý, cụ thể là: “Cán bộ, công chức, viên chức biết rõ việc tố cáo là không đúng sự thật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần hoặc biết vụ việc đã được cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết đúng chính sách, pháp luật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần mà không có bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo... gây mất đoàn kết nội bộ hoặc ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, đơn vị thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Tuy nhiên, đối với chủ thể là người dân thường cố tình tố cáo sai sự thật mà tố cáo nhiều lần thì chưa có chế tài xử lý hành chính, do đó còn gây khó khăn cho các cơ quan hành chính trong việc xử lý đối với những trường hợp đó. Đề nghị cần bổ sung chế tài xử lý hành chính đối với người dân có những hành vi này, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hạn chế tình trạng tố cáo tràn lan, vượt cấp, tố cáo nhiều lần, sai sự thật, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Đối với các hành vi vi phạm của các chủ thể khác trong quá trình giải quyết tố cáo, hiện nay, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo đã có các quy định xử lý đối với người giải quyết tố cáo có vi phạm trong quá trình giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có chế tài xử lý đối với một số chủ thể khác tham gia vào việc giải quyết tố cáo như đối với người xử lý đơn, người xác minh nội dung tố cáo. Thiết nghĩ cần tiếp tục xây dựng các chế tài để xử lý đối với các chủ thể này trong trường hợp họ có sai phạm như cố tình không xử lý đơn tố cáo tiếp; cố ý bỏ qua các bằng chứng, bỏ lọt các thông tin, tài liệu; làm mất hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu trong quá trình xác minh nội dung vụ việc tố cáo; bao che cho người bị tố cáo./.