Văn hóa - Xã hội

Thực hiện trợ cấp hàng tháng đối với 8 nhóm đối tượng bảo trợ xã hội
Ngày đăng 30/03/2023 | 13:53

Hiện nay xã hội đang trên đà phát triển, điều kiện sống của mỗi người dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều hoàn cảnh gặp khó khăn như: trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo, người cao tuổi, người bị khuyết tật…rất cần sự quan tâm, đùm bọc, chia sẻ của cộng đồng xã hội; đặc biệt là sự hỗ trợ, bảo trợ của Nhà nước và các cấp chính quyền.

     Chính sách an sinh xã hội nói chung và bảo trợ xã hội nói riêng đã được người yếu thế đón nhận như một sự đảm bảo cho cuộc sống, đây là hoạt động mang đậm tính nhân đạo, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

     Ngày 15/3/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội thay thế Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Nghị định số 20/2021/NĐ-CP với nhiều điểm mới trong thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng như: mở rộng phạm vị đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng; trợ giúp xã hội khẩn cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Mặt khác, đây được coi là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng hàng đầu để các cơ quan có thẩm quyền triển khai áp dụng các chính sách về trợ giúp xã hội trên thực tiễn, tính từ thời điểm 01/07/2021.

     Theo đó các nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:

(1) Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau:

- Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;

- Mồ côi cả cha và mẹ;

- Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

- Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

- Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

- Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

- Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

- Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

(2) Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.

(3) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.

(4) Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.

(5) Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định sau:

- Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng;

- Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo (không thuộc người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng) đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn;

- Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;

- Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.

(6) Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật.

(7) Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo (không thuộc trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng; Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo; Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật) mà đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.

(8) Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng.

     Các nhóm đối tượng trên luôn cần sự quan tâm của các cấp ủy, đảng, chính quyền, sự chung tay góp sức của các đơn vị, nhà hảo tâm và sự chia sẻ của cả cộng đồng để góp phần nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần, giúp họ giảm bớt khó khăn và nỗ lực vươn lên trong cuộc sống.

     Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn Quận luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Thường trực Quận ủy, HĐND, UBND Quận; sự hướng dẫn tận tình của phòng chuyên môn và sự phối hợp chặt chẽ của các phòng, ban, ngành, đoàn thể, UBND các phường và sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân. Chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn Quận đã được triển khai đúng, đầy đủ, kịp thời, đảm bảo quyền lợi của đối tượng, giúp họ giảm bớt khó khăn, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống.

     Hiện nay, toàn Quận đang thực hiện chi trả trợ cấp hàng tháng cho 4.376 đối tượng bảo trợ xã hội kinh phí gần 3 tỷ đồng/tháng, trong đó: 2.337 người khuyết tật; 1.622 người cao tuổi; 25 trẻ em mồ côi mất nguồn nuôi dưỡng; 12 người từ 16-22 tuổi mất nguồn nuôi dưỡng đang theo học tại các cơ sở giáo dục; 06 người đơn thân nuôi con nhỏ thuộc hộ nghèo, cận nghèo; 374 người chăm sóc trẻ mồ côi và người khuyết tật đặc biệt nặng.

     Trong thời gian tới, UBND quận Hoàng Mai tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan, UBND các phường thực hiện tốt chính sách bảo trợ xã hội, bên cạnh đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân tham gia trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội; tuyên truyền trực tiếp đến các đối tượng để họ không còn mặc cảm tự ti, vượt qua những khó khăn để phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Tăng cường cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách với đối tượng này trên tất cả các lĩnh vực như hỗ trợ phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội…; huy động các nguồn lực để chăm lo cho các đối tượng bảo trợ xã hội nói riêng và các đối tượng chính sách nói chung, nhân rộng và lan tỏa các chương trình, các phong trào xã hội, nỗ lực không để ai bỏ lại phía sau./. 

Nguồn: phòng Lao động TB&XH quận