Văn hóa - Xã hội
Luật Thủ đô số 39/2024/QH15 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 28 tháng 6 năm 2024 (sau đây gọi tắt là Luật Thủ đô năm 2024). Luật Thủ đô năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025 (Trừ 05 nội dung có hiệu lực thi hành từ 01/7/2025) thay thế Luật Thủ đô số 25/2012/QH13.
Luật Thủ đô năm 2024 sẽ tạo đột phá để thành phố Hà Nội tăng tốc phát triển. Ảnh: Nguyễn Quang.
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ (Chương II)
Nghị quyết số 15-NQ/TW xác định nhiệm vụ “Hoàn thiện tổ chức, bộ máy chính quyền Thủ đô theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, liên thông, phù hợp với vai trò, vị trí và yêu cầu phát triển, quản lý Thủ đô trong giai đoạn phát triển mới. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho Thủ đô trên một số lĩnh vực nhằm tạo sự chủ động, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực”.
Luật Thủ đô năm 2024 thể chế hoá đầy đủ những yêu cầu then chốt của Nghị quyết số 15-NQ/TW về nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức chính quyền Thủ đô đồng thời luật hoá các quy định đã được qua kiểm nghiệm thực tế là phù hợp của các nghị quyết của Quốc hội về thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác [1].
1. Tổ chức chính quyền Thủ đô tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
1.1. Quy định tổ chức chính quyền tại Hà Nội theo mô hình chính quyền đô thị ( Điều 8)
Theo đó, tổ chức chính quyền đô thị của Hà Nội gồm:
- Chính quyền địa phương ở thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố Hà Nội, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (khoản 1 Điều 8).
- Chính quyền địa phương ở phường tại Thành phố là Uỷ ban nhân dân phường (khoản 2 Điều 8).
Quy định này được xây dựng trên cơ sở kết quả sơ kết 3 năm thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội (không tổ chức Hội đồng nhân dân phường)
1.2. Tăng cường tổ chức bộ máy, nhân sự và thẩm quyền của Hội đồng nhân dân Thành phố, Hội đồng nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố (Điều 9, Điều 11)
- Hội đồng nhân dân Thành phố được bầu 125 đại biểu Hội đồng nhân dân; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách ít nhất là 25% tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân Thành phố hoạt động chuyên trách, gồm Chủ tịch, không quá 03 Phó Chủ tịch và các Ủy viên, bảo đảm không quá 11 người; được thành lập không quá 06 Ban để tham mưu về các lĩnh vực cụ thể (tăng 02 Ban so với quy định pháp luật hiện hành) (khoản 1,2,3 Điều 9).
- Hội đồng nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố có 02 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách không quá 09 người; được thành lập không quá 03 Ban tham mưu các lĩnh vực cụ thể (tăng 01 Ban sơ với quy định pháp luật hiện hành) (khoản 1,2 Điều 11).
Các quy định trên nhằm nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp trong bối cảnh không tổ chức Hội đồng nhân dân phường. Việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách không chỉ tăng cường chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp mà còn giúp phát huy các cơ chế dân chủ trực tiếp đảm bảo tốt hơn nữa quyền và lợi ích của cử tri nói riêng, đảm bảo quyền làm chủ của người dân nói chung.
1.3. Điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền các cấp (Điều 9, Điều 10, Điều 12, Điều 13, Điều 14)
- T rao quyền cho Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định một số vấn đề đặc thù về tổ chức, nhân sự của Hội đồng nhân dân: số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố hoạt động chuyên trách; quyết định số lượng, tên gọi, phạm vi lĩnh vực phụ trách của các Ban của Hội đồng nhân dân Thành phố; quy định tiêu chí thành lập, tổ chức các Ban của Hội đồng nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố (khoản 4 Điều 9); đồng thời Luật quy định phân quyền trực tiếp cho Thường trực Hội đồng nhân dân Thành phố: giao Thường trực Hội đồng nhân dân Thành phố thẩm quyền phê chuẩn Phó Trưởng Ban và các Ủy viên của Ban (khoản 3, Điều 9); thẩm quyền quyết định và báo cáo Hội đồng nhân dân Thành phố tại kỳ họp gần nhất về 03 nội dung liên quan đến các biện pháp giải quyết công việc đột xuất, khẩn cấp, điều chỉnh chủ trương đầu tư trong trường hợp cần thiết (khoản 5, Điều 9).
- T rao quyền Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định các vấn đề về tổ chức, biên chế hành chính trên cơ sở đề án do Uỷ ban nhân dân Thành phố trình (khoản 4 Điều 9):
+ Việc thành lập, tổ chức lại, thay đổi tên gọi, điều chỉnh chức năng, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố chưa được quy định hoặc khác với quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (bảo đảm không vượt quá 15% khung số lượng do Chính phủ quy định);
+ Quy định về việc thành lập, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố chưa được quy định hoặc khác với quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (bảo đảm không vượt quá 10% khung số lượng do Chính phủ quy định);
+ Xác định số lượng biên chế cán bộ, công chức, số lượng viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước do Thành phố quản lý căn cứ vào danh mục vị trí việc làm, quy mô dân số, thực trạng khối lượng công việc, đặc điểm an ninh, chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn và khả năng cân đối ngân sách của Thành phố, bảo đảm tỷ lệ giữa tổng số biên chế so với tổng số dân không vượt mức tỷ lệ trung bình của cả nước trình cấp có thẩm quyền quyết định [2], giúp bảo đảm nguồn nhân lực công vụ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Thủ đô Hà Nội, phù hợp với định hướng tại Nghị quyết số 15-NQ/TW.
- Trao quyền cho Uỷ ban nhân dân Thành phố quyết định: điều chỉnh vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý; quyết định thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân Thành phố căn cứ vào nguyên tắc, điều kiện, tiêu chí theo quy định của pháp luật và theo trình tự, thủ tục do Hội đồng nhân dân Thành phố quy định (khoản 2,3 Điều 10).
- P hân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố và Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường trong bối cảnh không tổ chức Hội đồng nhân dân phường, trong đó chú trọng các điểm mới về phân định nhiệm vụ trong các lĩnh vực: thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước (UBND phường có nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị dự toán ngân sách trực thuộc UBND quận, thị xã, thành phố trực thuộc thành phố), thực hiện các thẩm quyền về đầu tư công (UBND phường đề xuất và UBND quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố quyết định chủ trương đầu tư các dự án sử dụng vốn đầu tư công tại các phường trực thuộc) (Điều 12, Điều 13).
Uỷ ban nhân dân phường được quyết định các nội dung mà theo quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác phải do Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định hoặc phải được Hội đồng nhân dân cấp xã thông qua trước khi quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định (điểm e khoản 1 Điều 13). UBND phường không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (khoản 2 Điều 13).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố có thẩm quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường; giao quyền Chủ tịch UBND phường theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 12).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường là người đứng đầu UBND phường, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân, UBND, Chủ tịch UBND quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định và theo phân cấp, ủy quyền (khoản 4, Điều 13).
Mục đích điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính tại các quy định trên theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền các cấp tại Thủ đô nhằm tạo sự chủ động, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của chính quyền các cấp Thủ đô.
1.4. Quy định nguyên tắc, nội dung việc phân cấp, uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân , Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Uỷ ban nhân dân (Điều 14)
- Quy định việc phân cấp, uỷ quyền của UBND Thành phố cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND Thành phố hoặc UBND cấp huyện, UBND cấp xã; phân cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý; việc uỷ quyền của Chủ tịch UBND Thành phố cho Phó Chủ tịch UBND Thành phố, người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND Thành phố hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện ( khoản 1 Điều 14) .
- Quy định việc phân cấp, uỷ quyền của UBND cấp huyện cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp huyện hoặc UBND cấp xã, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý; việc uỷ quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện cho Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp xã (khoản 2 Điều 14) .
- Quy định việc uỷ quyền giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND Thành phố cho UBND cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (khoản 3 Điều 14) .
- Quy định việc uỷ quyền của UBND, Chủ tịch UBND cấp xã cho công chức thuộc UBND cấp xã (khoản 4 Điều 14) .
Để đảm bảo việc giám sát, kiểm soát thực hiện quyền lực trong thực hiện cơ chế phân cấp, uỷ quyền, Luật giao Hội đồng nhân dân Thành phố quy định chi tiết phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được ủy quyền cho công chức thuộc UBND cấp xã, được phân cấp, ủy quyền cho đơn vị sự nghiệp công lập, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; UBND Thành phố ban hành văn bản quy định việc điều chỉnh trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết công việc phù hợp với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, ủy quyền bảo đảm yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, không quy định thêm thành phần hồ sơ, không tăng thêm yêu cầu, điều kiện, thời gian giải quyết thủ tục đang áp dụng (khoản 6, 7 Điều 14) .
2. Thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển Thủ đô (Điều 15, Điều 16)
Nghị quyết số 15-NQ/TW xác định phương hướng:“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có năng lực, trình độ cao, chuyên nghiệp, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có ý chí vươn lên, khát vọng cống hiến cho sự nghiệp phát triển Thủ đô. Có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế; thực hiện tốt cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, vì lợi ích chung theo quy định”.
2.1. Thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ( Khoản 1,2 Điều 15; khoản 1 Điều 16)
- Mở rộng đối tượng thu hút: công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực vượt trội, có kinh nghiệm thực tiễn, đang làm việc ở trong nước, ở ngoài nước có công trình, sản phẩm, thành tích, công trạng hoặc cống hiến đặc biệt để phát triển một lĩnh vực, một ngành của Thủ đô; Người nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có công trình hoặc sản phẩm đã được nghiệm thu, công nhận, ứng dụng đem lại hiệu quả cao (điểm a, c khoản 1 Điều 16).
- Đa dạng hoá hình thức thu hút, tuyển dụng: đối tượng thu hút là công dân Việt Nam có thể được xét tuyển, tiếp nhận vào làm công chức, viên chức hoặc được ký hợp đồng để thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ kể cả đảm nhiệm chức vụ quản lý, điều hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý của Thành phố, trong tất cả các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, y tế, giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ, thông tin và truyền thông…; đối tượng thu hút là người nước ngoài được ký hợp đồng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô. Quy định này sẽ tạo ra khả năng liên thông trong thu hút, sử dung nguồn nhân lực chất lượng cao giữa khu vực công và khu vực tư (Điều 16).
Luật cũng giao quyền cho người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND Thành phố, Chủ tịch UBND cấp huyện được ký hợp đồng có thời hạn với người đáp ứng các điều kiện đảm nhiệm một số vị trí việc làm thuộc nhóm nghiệp vụ chuyên ngành, nghiệp vụ chuyên môn dùng chung trong các cơ quan đó (khoản 2 Điều 15).
- Chế độ đãi ngộ: chế độ đãi ngộ linh hoạt phù hợp với từng đối tượng và hình thức thu hút (được xét tuyển, tiếp nhận hay ký hợp đồng) và được giao cho Hội đồng nhân dân Thành phố quy định (điểm d khoản 1 Điều 16).
Các quy định trên nhằm đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính chuyên nghiệp, năng động, hiện đại và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, khắc phục các bất cập, hạn chế của chính sách trọng dụng nhân tài ở Hà Nội thời gian qua.
2.2. Thống nhất một chế độ công vụ, công chức từ cấp xã và chế độ sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Thành phố (khoản 1 Điều 15)
Cán bộ, công chức làm việc tại xã, phường, thị trấn là cán bộ, công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức thuộc biên chế hành chính được giao hằng năm cho cấp huyện, được bầu cử, tuyển dụng, quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt và chủ động để thực hiện việc tuyển dụng, điều động, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác giữa cán bộ, công chức ở cấp xã và cấp huyện, đồng bộ hoá, chính sách về lương, ngạch bậc công chức, chế độ đãi ngộ …
2 .3. Quy định thực hiện chế độ hưởng thu nhập tăng thêm căn cứ theo năng lực, hiệu quả công việc của cán bộ, công chức, viên chức (khoản 3 Điều 15)
Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp; tham khảo kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh, Luật giao Hội đồng nhân dân Thành phố sử dụng nguồn tăng thu và nguồn cải cách tiền lương còn dư để thực hiện chế độ chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và đơn vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thuộc Thành phố quản lý.
Việc quy định về chế độ tiền lương, thu nhập tăng thêm của cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô để giúp họ bảo đảm đời sống, yên tâm công tác, cống hiến lâu dài, có hiệu quả cho sự phát triển của Thủ đô. Luật giao Hội đồng nhân dân Thành phố sử dụng nguồn tăng thu và nguồn cải cách tiền lương còn dư để thực hiện chế độ chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức không vượt quá 0,8 lần quỹ lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Thành phố (điểm a khoản 1 Điều 35).
2.4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Thủ đô (khoản 2 Điều 16)
Tập trung vào các biện pháp:
- Xác định các ngành, lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cao;
- Sử dụng ngân sách Thành phố hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị của cơ sở đào tạo trọng điểm quốc gia trên địa bàn Thành phố; hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng nghề tại các cơ sở đào tạo nước ngoài cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành phố quản lý và học sinh, sinh viên của các cơ sở giáo dục, đaò tạo trên địa bàn Thành phố;
- Hỗ trợ hình thành các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng về đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, hỗ trợ học phí cho học sinh học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao của Thành phố.
[1] Nghị quyết số 97/2019/QH 14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về Thí điểm tổ chức mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội; Nghị quyết số 160/2021/QH14 ngày 08/4/2022 của Quốc hội về Thí điểm bố trí chức danh đại biểu hoạt động chuyên trách của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nôi (NQ số 160); Nghị quyết số 115/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về Thí điểm một số cơ chế, chính sách tài chính- ngân sách đặc thù đối với Thành phố Hà Nội; Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 và Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/5/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Theo quy định hiện nay, việc quản lý biên chế hành chính do Chính phủ quyết định; biên chế sự nghiệp do chính quyền địa phương quyết định sau khi trình xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền. Việc xác định số lượng biên chế căn cứ trên cơ sở Đề án vị trí, việc làm đã được phê duyệt. Tuy nhiên, việc giao biên chế chưa thực sự hợp lý vì chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết về biên chế của thành phố Hà Nội. Ví dụ: Tính theo số dân/biên chế công chức trung bình tại 63 tỉnh, thành phố (tính đến tháng 6/2021) bằng 686 người dân/01 công chức. Trong khi, Hà Nội là: 8.053.663 người dân/7.927 công chức, bằng 1.016 người dân/01 công chức. Đối với một số lĩnh vực như giáo dục và y tế, việc bố trí nguồn lực gặp nhiều khó khăn do tốc độ đô thị hóa và tăng dân số cơ học tại địa phương, nhu cầu học tập tăng, trong khi biên chế viên chức giáo dục giảm; dẫn đến áp lực từ cử tri, xã hội lên hệ thống giáo dục là rất lớn. Từ năm 2015 đến nay, Hà Nội không được tăng biên chế viên chức, dẫn đến khó khăn trong việc bố trí giáo viên, cán bộ y tế theo tốc độ tăng dân số ngày một cao” (Báo cáo số 59/BC-BTP ngày 28/2/2023 của Bộ Tư pháp về Báo cáo đánh giá tác động của chính sách Luật Thủ đô (sửa đổi))
PHÒNG VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN