Văn hóa - Xã hội
Luật Thủ đô số 39/2024/QH15 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 28 tháng 6 năm 2024 (sau đây gọi tắt là Luật Thủ đô năm 2024). Luật Thủ đô năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025 (Trừ 05 nội dung có hiệu lực thi hành từ 01/7/2025) thay thế Luật Thủ đô số 25/2012/QH13.
Một góc Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Ảnh: Thạch Thảo.
Về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển khu công nghệ cao ( Điều 23, Điều 24, Điều 25, Điều 36 và một số điều khoản khác).
Nghị quyết số 15-NQ/TW đã xác định nhiệm vụ: “…Lấy khoa học công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triển kinh tế- xã hội Thủ đô; phát huy hiệu quả nguồn lực trí tuệ con người, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ, kết nối theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp trong vùng kinh tế và cả nước. Thu hút các tập đoàn đa quốc gia thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển đặt trụ sở tại Hà Nội”.
Luật Thủ đô năm 2024 kế thừa, đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới so với quy định tại Điều 13 của Luật Thủ đô năm 2012; quy định chính sách, giải pháp về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
3.1. Các quy định đặc thù, nổi trội để thực hiện mục tiêu về phát triển khoa học, công nghệ
a) Xác định các lĩnh vực khoa học, công nghệ trọng điểm và chính sách ưu đãi
Luật Thủ đô năm 2024 xác định các lĩnh vực khoa học, công nghệ trọng điểm của Thủ đô (khoản 1 Điều 23) và áp dụng các ưu đãi nhằm thu hút, phát huy tối đa tiềm lực của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức khoa học, công nghệ tham gia chủ trì, thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ trọng điểm (khoản 2 Điều 23), thu hút nhân tài là công dân Việt Nam, người nước ngoài vào các hoạt động khoa học, công nghệ nói chung (khoản 1 Điều 16); áp dụng các ưu đãi về thuế thu nhập đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực trọng điểm (điểm a, b khoản 3 Điều 43); các ưu đãi đầu tư cho các dự án sử dụng hoặc phát triển công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo (điểm đ, e Khoản 1 Điều 43), đặc biệt là ưu tiên thu hút nhà đầu tư chiến lược cho các dự án, ngành nghề, lĩnh vực khoa học, công nghệ (điểm b, c khoản 1 Điều 42).
b) Quy định biện pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế quản lý khoa học
- Áp dụng phương thức tuyển chọn hoặc giao trực tiếp đối với nhiệm vụ khoa học, công nghệ trọng điểm của Thủ đô, dự án thử nghiệm cấp thành phố; áp dụng hình thức khoán kinh phí theo kết quả, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học, công nghệ; cơ chế chuyển giao không bồi hoàn tài sản, kết quả, sản phẩm hình thành từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ cho doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ, cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập nếu đáp ứng đủ điều kiện về năng lực ứng dụng, phát triển kết quả, sản phẩm để phục vụ quản lý, phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô; hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách Thành phố cho doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ để hình thành các trung tâm nghiên cứu và phát triển, phòng thí nghiệm, nhận chuyển giao công nghệ thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô, qua đó thúc đẩy phát triển thị trường khoa học, công nghệ của Thủ đô (khoản 3 Điều 23)
- Cơ sở giáo dục đại học công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, tổ chức khoa học và công nghệ công lập khác trên địa bàn Thành phố được thành lập hoặc tham gia thành lập doanh nghiệp, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ thuộc quyền sở hữu trí tuệ của chính cơ sở, tổ chức đó; Cho phép viên chức làm việc tại cơ sở giáo dục đại học công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, tổ chức khoa học và công nghệ công lập khác trên địa bàn Thành phố được tham gia góp vốn, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp do cơ sở, tổ chức đó thành lập hoặc tham gia thành lập khi được sự đồng ý của người đứng đầu cơ sở tổ chức (khoản 4 Điều 23).
Đây là quy định mang tính đột phá trong Luật Thủ đô năm 2024. Quy định này nhằm thể chế hoá Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương [1], khuyến khích các nhà khoa học, người làm việc tại các trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức khoa học và công nghệ tại Hà Nội tích cực đổi mới sáng tạo, phát huy kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng thiết thực, tham gia vào quá trình thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ, mang lại giá trị kinh tế cho chính các trường, viện để tái đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo và giá trị kinh tế chung cho toàn xã hội.
c) Cho phép thành phố Hà Nội áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát
Thành phố Hà Nội được áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới có tính đổi mới sáng tạo trong điều kiện thực tế với phạm vi được giới hạn, dưới sự kiểm soát đặc biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một số lĩnh vực có khả năng mang lại giá trị, hiệu quả cao về kinh tế- xã hội mà pháp luật chưa có quy định, chưa cho phép thực hiện hoặc quy định hiện hành của pháp luật không còn phù hợp với đặc điểm, tính năng mới của công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh [2] để thúc đẩy Thủ đô đi đầu, tiên phong trong đổi mới sáng tạo (Điều 25).
Các nội dung cốt lõi, quan trọng nhất của cơ chế thử nghiệm có kiểm soát gồm:
- Tổ chức, doanh nghiệp được cho phép thử nghiệm có kiểm soát phải đáp ứng các điều kiện và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm, nghĩa vụ do luật định, cụ thể:
+ Các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh được đề xuất thử nghiệm có tính đổi mới sáng tạo có phạm vi ứng dụng, triển khai trên địa bàn thành phố Hà Nội, ưu tiên đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh triển khai trong phạm vi khu công nghệ cao, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Trung tâm đổi mới sáng tạo của Thành phố (điểm a khoản 3 Điều 25).
+ Các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh được đề xuất thử nghiệm có triển vọng mang lại giá trị, hiệu quả cao về kinh tế- xã hội, ưu tiên trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô; không thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia, biến đổi, chỉnh sửa gen người; không xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (điểm b khoản 3 Điều 25).
+ Tổ chức, doanh nghiệp đề xuất thử nghiệm phải có phương án thử nghiệm; cam kết trách nhiệm đối với sự an toàn của người dùng và bên có liên quan; các biện pháp kiểm soát rủi ro; cơ chế giải quyết khiếu nại của người dùng; phạm vi và các biện pháp bồi thường thiệt hại; đồng thời phải cung cấp thông tin, tài liệu chứng minh năng lực phù hợp với phương án thử nghiệm đã đề xuất (điểm c khoản 3 Điều 25).
+ Phạm vi giới hạn thử nghiệm được đề xuất phù hợp với năng lực kiểm soát của chính quyền Thành phố (điểm d khoản 3 Điều 25). Luật cũng quy định rõ thời hạn thử nghiệm có kiểm soát tối đa là 03 năm và có thể được gia hạn 01 lần không quá 3 năm (khoản 1 Điều 25).
- Luật quy định các nguyên tắc cho phép và thực hiện thử nghiệm có kiểm soát (khoản 4 Điều 25); các nội dung bắt buộc phải có trong Quy chế thử nghiệm riêng cho từng công nghệ, sản phẩm, dịch vụ hay mô hình kinh doanh do Uỷ ban nhân dân Thành phố quy định (khoản 8 Điều 25); quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan hướng dẫn, kiểm soát quá trình thử nghiệm (khoản 7 Điều 25); trách nhiệm và các trường hợp được miễn hoặc loại trừ trách nhiệm pháp lý của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện thử nghiệm cũng như của cơ quan và cán bộ, công chức trực tiếp hướng dẫn, kiểm soát thử nghiệm (điểm d khoản 4 Điều 25).
- Luật cũng quy định chi tiết quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng nhân dân Thành phố trong việc ban hành thể chế để cụ thể hoá về tiêu chí, điều kiện lựa chọn và trình tự, thủ tục cho phép, điều chỉnh, gia hạn và chấm dứt việc thử nghiệm có kiểm soát (khoản 9 Điều 25); trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân Thành phố trong việc cho phép, tổ chức hướng dẫn và kiểm soát quá trình thử nghiệm (khoản 6 Điều 25). Một quy định đặc thù, vượt trội của Luật là cho phép Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định phạm vi miễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với từng dự án thử nghiệm cụ thể phù hợp với yêu cầu, mục đích thử nghiệm theo đề nghị của Ủy ban nhân dân Thành phố trên cơ sở đánh giá về mức độ rủi ro và khả năng kiểm soát (khoản 5 Điều 25).
- Luật quy định trách nhiệm của Chính phủ, trên cơ sở báo cáo của Uỷ ban nhân dân Thành phố, tổ chức xem xét, đánh giá kết quả, hiệu quả các nội dung thử nghiệm có kiểm soát để quyết định theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành mới, sửa đổi, bổ sung pháp luật về lĩnh vực, nội dung có liên quan làm cơ sở cho việc áp dụng chính thức công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh đã được thử nghiệm (khoản 10 Điều 25).
d) Thành phố Hà Nội được thí điểm thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm có sử dụng ngân sách nhà nước
Quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vốn vào các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong các lĩnh vực trọng điểm về khoa học và công nghệ của Thủ đô nhằm hỗ trợ, đổi mới sáng tạo và thương mại hoá sản phẩm khoa học, công nghệ.
Quỹ đầu tư mạo hiểm được bố trí vốn điều lệ từ ngân sách Thành phố, được nhận tài trợ, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Việc quản lý, sử dụng các nguồn vốn của Quỹ đầu tư mạo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, chấp nhận khả năng rủi ro, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí vốn (khoản 1 Điều 36).
Luật quy định Ủy ban nhân dân Thành phố xây dựng đề án thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm trình Hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt, trong đó xác định rõ hình thức tổ chức hoạt động của Quỹ; thời gian hoạt động của Quỹ; mức hỗ trợ vốn điều lệ từ ngân sách Thành phố; phương thức đầu tư, đối tượng hợp tác, nhận vốn đầu tư; cơ chế đánh giá, kiểm soát rủi ro, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, vận hành Quỹ đầu tư mạo hiểm của Thành phố (khoản 2 Điều 36).
Hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt đề án, quy định cơ chế tổ chức hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm, trách nhiệm kiểm tra, giám sát, báo cáo kết quả thực hiện. Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập Quỹ, ban hành điều lệ, quy chế đầu tư của Quỹ đầu tư mạo hiểm (khoản 3 Điều 36).
Nhân viên của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc nghiên cứu tại phòng thí nghiệm.
3.2. Về quản lý, phát triển khu công nghệ cao (Điều 24)
Nghị quyết số 15-NQ/TW xác định:“ Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và khu vực với hạt nhân là Khu công nghệ cao Hoà Lạc, các viện nghiên cứu, trường đại học”.
Thể chế hoá định hướng tại Nghị quyết số 15-NQ/TW, để chính quyền Thành phố Hà Nội có đủ thẩm quyền thực thi các chính sách, giải pháp đặc thù, nổi trội trong quản lý, phát triển khu công nghệ cao, Luật Thủ đô năm 2024 quy định phân quyền, phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền Thành phố Hà Nội. Đồng thời, cho phép áp dụng cơ chế phân cấp, uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân Thành phố cho Ban quản lý Khu công nghệ cao- một tổ chức hành chính trực thuộc Uỷ ban nhân dân Thành phố thực hiện một số nhiệm vụ quản lý tổ chức, hoạt động của khu công nghệ cao. Cụ thể:
- Phân quyền cho Uỷ ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập, điều chỉnh, mở rộng ranh giới khu công nghệ cao trên địa bàn Thành phố; ban hành quy chế hoạt động của các khu công nghệ cao do Uỷ ban nhân dân Thành phố thành lập (khoản 1 Điều 24).
- Quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn cho Ban Quản lý khu công nghệ cao để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp các khu công nghệ cao trên địa bàn Thành phố trong các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, chấp thuận nhu cầu sử dụng và cấp phép sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại khu công nghệ cao, cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép xây dựng công trình trong phạm vi khu công nghệ cao (khoản 3 Điều 24).
- Luật xác định vị trí đặc biệt của Khu công nghệ cao Hoà Lạc là khu vực nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, ứng dụng công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất sản phẩm công nghệ cao và đổi mới sáng tạo trọng điểm của đất nước và Thủ đô; là điểm thử nghiệm, thí điểm về cơ chế, chính sách cho việc phát triển công nghệ cao và các khu công nghệ cao trong cả nước (khoản 2 Điều 24).
Tương xứng với vị trí hạt nhân của Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Luật Thủ đô năm 2024 quy định các chính sách đặc thù, vượt trội áp dụng đối với Khu công nghệ cao Hoà Lạc nhằm tạo cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và xã hội cần thiết thực hiện mục tiêu thu hút các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực công nghệ cao, thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển đặt trụ sở tại Hà Nội. Luật Thủ đô năm 2024 quy định các chính sách đặc thù cho khu Khu công nghệ cao Hoà Lạc:
+ Ngân sách Thành phố bố trí vốn để đầu tư xây dựng và phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, xây dựng nhà lưu trú phù hợp với quy hoạch để bố trí cho người lao động làm việc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc thuê trong thời gian làm việc (điểm a khoản 2 Điều 24);
+ Nhà nước cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất đối với dự án thực hiện các loại hình hoạt động công nghệ cao có sử dụng đất (điểm b khoản 2 Điều 24);
+ Nhà đầu tư thực hiện dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc được chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ mục tiêu dự án sang nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo hoặc cung ứng dịch vụ công nghệ cao và tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư, quỹ đất đã được giao, cho thuê để thực hiện dự án theo mục tiêu chuyển đổi (điểm c khoản 2 Điều 24).
+ Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, quản lý đất đai trong phạm vi Khu công nghệ cao Hoà Lạc thực hiện theo phân cấp, uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân Thành phố (điểm b khoản 1 Điều 24).
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng, khai thác tối đa, kịp thời và hiệu quả tài sản công của các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Luật Thủ đô năm 2024 có những quy định có tính đột phá như quy định tài sản do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hiến, biếu, tặng, cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ và hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác cho Ban Quản lý Khu công nghệ cao hoặc đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong Khu công nghệ cao Hoà Lạc được xác định là tài sản công hợp pháp của đơn vị sự nghiệp công lập trực tiếp tiếp nhận, quản lý, sử dụng tài sản đó mà không phải thực hiện thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân (điểm đ khoản 2 Điều 24); đặc biệt là quy định về giao quyền cho Hội đồng quản lý hoặc người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đối với nơi không tổ chức Hội đồng quản lý có cơ sở trong Khu công nghệ cao Hoà Lạc, bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, được quyết định sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị phục vụ trực tiếp cho các hoạt động công nghệ cao, khởi nghiệp sáng tạo và hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Khu công nghệ cao Hoà Lạc (điểm d khoản 2 Điều 24); Hội đồng nhân dân Thành phố và các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định trình tự, thủ tục thực hiện các nội dung trên đối với các sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý của mình (khoản 4, 5 Điều 24).
[1] Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đề ra nhiệm vụ có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thành lập doanh nghiệp đa sở hữu trong các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm thực hiện hoạt động ứng dụng, triển khai, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
[2] Quy định này là bước đầu thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó đưa ra chủ trương: “Sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm”.